Cái kho của thế giới mạng
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Kiến thức Âm nhạc đại cương

Go down

Kiến thức Âm nhạc đại cương Empty Kiến thức Âm nhạc đại cương

Bài gửi by Admin Sun Jul 31, 2011 10:03 am

I. ÂM NHẠC LÀ TIẾNG NÓI CỦA TƯ TƯỞNG VÀ TÌNH CẢM


Trong cuộc sống, chúng ta trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ. Bằng ngôn
ngữ được xắp xếp thành câu, thành lời, tôi thông tin cho các bạn điều
tôi nghĩ trong đầu của tôi. Khi nghe tôi nói, các bạn hiểu ý của tôi nhờ
nội dung của những từ ngữ được xắp xếp theo một quy tắc( ngữ pháp). Nhưng ngoài nội dung của từ ngữ - ngữ nghĩa – bạn còn nhận được nội dung khác nữa qua giọng điệu của lời tôi nói – ngữ điệu – và bạn nắm thêm sắc thái tình cảm của tôi.

Cùng một câu nói, tức là cùng một nội dung ngữ nghĩa, mà có khi ta
nghe qua giọng điệu, ngữ điệu như là kẻ cả, trịnh thượng, hoặc thân ái,
ân cần, hoặc yêu thương, nũng nịu, hoặc sôi nổi, nhiệt tình… Thế là cứ
qua mỗi câu nói, người nghe nhận được cùng một lúc hai dòng thông tin :
một nội dung trong do ngữ nghĩa và một nội dung khác do ngữ điệu. Nội
dung ngữ nghĩa là nội dung mang tính xác định cụ thể của ngôn ngữ, từ
ngữ và được tiếp nhận bằng lí trí, trí tuệ. Nội dung ngữ điệu là sắc
thái tình cảm với muôn vàn cung bậc của nó và thường được tiếp nhận bằng
trái tim, nói rõ hơn là sự rung cảm của người nghe (dĩ nhiên xét đến
cùng thì tría tim này cũng được khối óc dạy dỗ).

Ta cần chú ý sự khác nhau giữa dòng thông tin thứ nhất và dòng thông
tin thứ hai, vì không phải bao giờ dòng thứ hai cũng nương nhờ vào dòng
thứ nhất hoặc chẳng qua chỉ là sự nhất mạnh hay giảm nhẹ nội dung của
dòng thứ nhất. Có lúc, trong một câu nói mà ngữ điệu đối lập, trái ngược
với ngữ nghĩa ; ngữ nghĩa có thể là khẳng định nhưng ngữ điệu lại phủ định (nội dung của ngữ nghĩa) và ngược lại, ngữ nghĩa có thể là phủ định mà ngữ điệu lại khẳng định.
Một bạn trai gặng hỏi bạn gái của mình rằng : Em có yêu anh không ?Bạn gái bẽn lẽn trả lời : Khôôông. Từ không mang lại nội dung phủ định thế mà bạn trai lại thích thú và phấn hứng, vì qua ngữ điệu của bạn gái (nũng nịu, âu yếm...) bạn trai đã thấy rõ thái độ khẳng định của bạn gái trong mối tình này.
Vậy là ngữ điệu có tính độc lập tương đối của nó,
qua ngữ điệu, ta có thể nhận được một thông tin nhất định truớc hết là
về tình cảm – mà tình cảm đó lại là sự biểu hiện cụ thể của một nhận
thức, một quan niệm ; nhận thức và quan niệm ấy được biểu hiện bằng một
sắc độ tình cảm tương ứng. Ta có thể nghe một cuộc nói chuyện giữa hai
người nước ngoài mà ta không hiểu về ngôn ngữ của họ, nhưng ta có thể
hiểu được (có giới hạn) về quan hệ, về tình cảm và về cả nội dung câu
chuyện của họ trao đổi với nhau. Đó chính là nhờ ngữ điệu. Ta có thể
thấy ngôn ngữ Việt Nam có những hư từ (từ không có nghĩa) như : à, chà, chăng, ô, hừ, hở, hử, ố, ối, ư, ...Thế
nhưng những hư từ không có nghĩa đó lại rất cần thiết cho câu nói, lời
nói để biểu đạt sắc thái tình cảm. Với ngữ điệu, hư từ trở thành thực từ, từ có nghĩa. Sự xuất hiện của hư từ
trong ngôn ngữ chứng tỏ rằng loài người đã thấy vai trò của ngữ điệu
cũng như tính độc lập tương đối và khả năng biểu hiện của ngữ điệu.

Chính từ cách biểu hiện nội dung ngữ nghĩa từ giọng điệu, ngũ điệu ấy,
với suốt chiều dài lịch sử, từng bước, từng bước, loài người nâng cao
mãi lên, phát triển thêm, xây dung thành những quy ước với một hệ thống
những phuơng tiện diễn tả của loại hình âm nhạc như ngày nay. Giọng điệu
ngữ, điệu đã trở thành ngọn nguồn của âm nhạc. Từ cao, thấp, trầm
bổng...của ngữ điệu mà nâng lên và sáng tạo thành cao độ, giai điệu của âm nhạc ; từ dài. ngắn, khoan, nhặt...của ngữ điệu mà nâng lên và sáng tạo thành trường độ của âm nhạc ; từ mạnh, yếu... mà thành cường độ ; từ nhanh, chậm.... thành nhịp điệu, tiết tấu...

Ta hãy thử theo dõi khi người mẹ đến với con. Đứa bé đang khóc, bà mẹ
đến bên nôi, ghé mặt xuống gần mặt con và nựng nó. Có thể bà mẹ ru con,
nhưng cũng có thể không ru, không hát mà chỉ nói mấy tiếng, mấy từ :
chậc...âu. Thế là đứa bé nín khóc, nhoẻn miệng cười. Rõ ràng đứa bé
không hiểu và không nhận được lượng thông tin thứ hai qua ngữ điệu của
người mẹ, nghĩa là đứa bé đón nhận nội dung tình cảm của mẹ. Nếu không
phải là cực đoan thì ta có thể nói rằng : đứa bé đó đang nghe âm nhạc ;
đứa bé đã nghe một bản nhạc không lời và hiểu được nội dung tình cảm của
người mẹ qua bản nhạc không lời chậc...âu.

Cứ nghe kĩ giọng điệu nựng con của người mẹ ! Ôi, sao mà yêu thương,
tha thiết đến thế ! Và chính từ giọng điệu yêu thương, tha thiết đó được
nâng cao, cách điệu, được phát triển lên thành những bài hát ru con rót
vào tận sâu thẳm lòng ta. Đến đây, nếu ai hỏi rằng bài ru con (dân ca Nam Bộ) nói lên điều gì thì ta có thể trả lời một cách rõ ràng và dứt khoát, thậm chí còn chính xác nữa là khác !
Làm thế nào mà chính xác được ? Bài ru con
đó, sở dĩ ta nắm được nội dung là vì lời ca. Nhờ lời ca và ngữ nghĩa
của ngôn từ mà ta nói được ý nghĩa nội dung của tác phẩm âm nhạc. Nhưng
nếu là một bản nhạc thuần tuý nhạc không lời thì sao ?

Một bài hát là một bản nhạc có thêm lời ca. ở đây, nội dung tác phẩm âm
nhạc được biểu hiện bằng hai phuơng tiện diễn tả : âm thanh ngôn ngữ. Nhung không nên coi lời ca là một sự phiên dịch
máy móc nội dung của âm thanh. Ngôn ngữ lời ca chỉ mới gợi mở, định
hướng cho người nghe . Ngôn ngữ lời ca khi được ca lên, hát lên sẽ trình
bày một nội dung rộng hơn, sâu hơn là ngôn ngữ thuần tuý. Lời nhờ có nhạc mà chấp cánh bay cao hơn, xa hơn.
Thử so sánh câu ca dao và làn điệu dân ca sau đây :
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay

Một cô gái tặng cho người yêu và dành phải nói dối với mẹ rằng qua cầu
đánh rơi mất áo ! Qua nội dung của ngôn từ ta hiểu được trạng thái tâm
lý, tình cảm của cô gái : cô ta đang yêu, yêu say đắm. Và đó là một mối
tình ngây thơ, hồn nhiên đến mức tưởng rằng ai cũng hồn nhiên, ngây thơ
như mình dễ tin cái chuyện qua cầu gió có thể làm bay mất cả áo đang mặc
trong người là có thật.

Trạng thái yêu say đắm mà ngây thơ ấy, với thái độ ngập ngừng, do dự,
ngượng ngùng khi phải nói dối của cô gái rõ ràng được biểu hiện đầy đủ
hơn, sáng tỏ hơn trong âm nhạc.

Lời, chỉ lời thôi chưa đủ ! Ngữ nghĩa mới chỉ là một phần. Với âm nhạc,
sắc thái tình cảm được biểu hiện một cách rõ nét hơn, sâu sắc hơn. Ưu
thế của âm nhạc chính do ưu thế của ngữ điệu đem lại ; đó là mặt mạnh
của ngữ điệu so với ngữ nghĩa. Cho nên, không phải ngẫu
nhiên mà nhiều nhạc sĩ nổi tiếng, nhiều nhà lí luận âm nhạc thường cùng
nhắc đi nhắc lai mệnh sau đây : nơi nào ngôn ngữ bất lực thì ở đó bắt
đầu có âm nhạc.

Nếu trong cuộc sống ta thường nói có 36 thứ cười thì trong cuộc sống
cũng có bấy nhiêu thứ giọng (giọng điệu, ngữ điệu). Có giọng gợi lên sự
thân thương, có giọng gay gắt, giọng kẻ cả, giọng khẩn cầu, giọng u uất,
giọng nũng nịu, giọng hờn dỗi, giọng hách dịch, giọng đuờng bệ, giọng
ai oán, giọng căm hờn, giọng thèm khát, giọng chán chường giọng nịnh
hót...Tất cả những sắc thái tình cảm đó sẽ được tái tạo và sáng tạo để
đưa vào âm nhạc. Ta có thể thấy rõ : Khi buồn giọng nói đều đều, trầm
trầm rời rạc ; khi vui, giọng nói nhanh nhanh, cao cao, vang ngân...Nói
một cách cường điệu, trong cuộc sống hàng ngày, ai cũng có lần sáng tác âm nhạc rồi đó !

Cũng là ru con, vậy có người mẹ nào khi ru con mà không tha thiết yêu
thương ? Nhưng nếu người mẹ lại mang trong lòng những nỗi buồn chua xót,
tủi cực của thân phận người phụ nữ bèo bọt, đắng cay thì giọng ru làm
sao có thể trong sáng, lạc quan được ? Người mẹ Việt Nam trong xã hội cũ
yêu con tha thiết, da diết, nhưng vẫn mang một nét âm thầm pha chút tủi
cực bên tron. Cũng người mẹ Việt Nam ấy, ngày nay, vẫn ru con và cũng
yêu con tha thiết, nhưng tình cảm lại bay bổng và mang nhiều mơ ước,
khát vọng hơn...

Từ ngôn ngữ đến ngữ điệu, từ ngữ điệu đến âm nhạc, đó là một quá trình
vận động và phát triển ngôn ngữ trong quan hệ giao tiếp của xã hội loài
người ; đó là một quá trình không bằng phẳng mà gấp khúc, không đơn giản
mà phức tạp, một quá trình biến đổi với những bước nhảy vọt từ lượng
đến chất của ngôn ngữ và cũng là tư duy, của trí tuệ loài người. Ngữ
điệu từ chỗ tồn tại trên cơ sở ngữ nghĩa, dần dần phát huy tính độc lập
tương đối của nó và đến một lúc nào đấy, nó có khả năng tồn tại ngoài
ngôn ngữ như để gửi gắm mình vào trong âm nhạc thuần tuý – nhạc không lời.
Sơ đồ sau đây giúp ta thấy rõ quá trình phát triển vai trò của ngữ điệu ;

Ta khảo sát thêm vấn đề trên ở một lĩnh vực khác : các làn điệu dân
ca,cùng trên lãnh thổ Việt Nam nhưng giọng điệu, thanh điệu, nói chung
là về mặt ngữ âm, ta thấy có sự khác nhau giữa các vùng, các miền, các
địa phương mà ta vẫn quen gọi là giọng bắc, giọng nghệ tĩnh, giọng huế,
giọng khu năm ( cũ ), giọng nam bộ... Thật dễ dàng thấy sự liên hệ mật
thiết giữa giọng nghệ tĩnh với các làn điệu dân ca ví, giặm, hát phường
vải... ; giữa giọng huế với các điệu hò mái nhì, mái đẩy...; giữa giọng
nam bộ với các làn điệu cải lương... Cũng không phải là ngẫu nhiên mà
các ca sĩ miền bắc hát các làn điệu cải lương lại bắt chước giọng nam
bộ, khi các ca sĩ miền nam hát những ca khúc mới thì lại theo ngữ âm
chuẩn của Hà Nội...
Tất cẩ những hiện tượng đó chứng minh rằng : giọng điệu của ngôn ngũ – ngữ điệu – chính là ngọn nguồn của âm nhạc.

Đến đây, ta có thể rút ra một kết luận bước đầu : vì nẩy sinh từ giọng
điệu của ngôn ngữ ( nói ) – ngữ điệu – nền âm nhạc có khả năng phản ánh
những sắc thái khác nhau, phong phú, đa dạng của tình cảm con người
trong cuộc sống. Như vậy, từ ngọn nguồn của nó mà âm nhạc trở thành tiếng nói của tình cảm : một tác phẩm âm nhạc là sự biểu hiện một dạng tình cảm nhất định của tác giả - nhạc sĩ trước hiện thực cuộc sống.
II. ÂM THANH VÀ ÂM THANH ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG ÂM NHẠC
1. Âm thanh :

Ơ bên ngoài nghệ thuật, âm thanh đã là biểu hiện trực tiếp sinh động
nhất của những trạng thái, những tình cảm của tâm hồn, tiếng gọi của
trái tim, như một sự cảm thán, tiếng kêu của nỗi đau, tiếng rên, tiếng
cười. Đó là một sản phẩm tự phát, sự phát lộ đột ngột của tâm hồn như
chính nó. Đó là một biểu hiện nằm ở chính giữa từ sự tập trung, sự đắm
chìm vô ý thức đến suy tưởng, sự tự thức tỉnh về những ý nghĩ bên trong
và xác định chủa tâm hồn, từ hành động đến thưởng ngoạn. Trong tiếng hót
của con chim, nó cũng thích thú khi nó biểu hiện.

Tuy nhiên, sự biểu hiện tự nhiên đơn giản đó vẫn chưa hoàn toàn chưa
phải là âm nhạc. Những tiếng kêu ấy thật ra không phải là những dấu hiệu
nhân tạo như những tiếng kêu của ngôn ngữ được phát âm rõ ràng của lời
nói; mà chúng cũng không biểu hiện một ý thức được trình bày trong tính
khái quát của nó. Chúng biểu hiện bằng âm thanh và trong âm thanh một
hoàn cảnh tinh thần, một tình cảm toát lên bằng tiếng kêu trực tiếp,
cũng làm dịu bớt trái tim bằng sức mạnh của hơi thở. Nhưng sự giải thoát
ấy không giống với sự giải thoát do nghệ thuật taok nên. Âm nhạc phai
biểu hiện tình cảm bằng những âm thanh có nhịp độ và giai điệu, do đó mà
tước bỏ đi sự cường bạo ở cách biểu hiện tự nhiên, làm cho cách biểu
hiện này dịu nhẹ hơn, ôn hoà hơn, sâu sắc hơn.

Hội hoạ thường có thể gây nên những hiệu ứng đẹp nhất và nghệ thuật
nhất khi nó hoàn toàn chìm đắm vào hình thức hiên thực, vào màu sắc và
lối biểu hiện tràn đầy tâm hồn của con người trong một tình thế và một
hoàn cảnh nhất định. Những cái mà hội hoạ hoàn toàn thấm đượm và được
đón nhận ở tự thân ấy, nó được tái hiện một cách đầy đủ với tất cả sức
sống của nó. ở đây, sự trung thành tự nhiên là hoàn toàn thích hợp, với
điều kiện nó phù hợp với chân lí nghệ thuật. Trái lại âm nhạc không thể
biểu hiện tình cảm sự vụt trào tự nhiên của đam mê mà nó phải đưa âm
thanh vào cuộc sống phong phú và có hồn hơn, được kết hợp theo những
quan hệ số lượng và hoà âm : bằng cách đó nó lí tưởng hoá hiện thực, đem
lại sự biểu hiện một hình thức cao hơn hoàn toàn được nghệ thuật sáng
tạo và chỉ dành riêng cho nghệ thuật. Như vậy, tiếng kêu thông thường
phát triển thành vô số âm thanh và âm nhạc ; nó in dấu sự vận động với
những biến đổi và tiến trình được điều tiết bởi các định luật hoà âm và
diễn ra thành giai điệu.

2. Âm thanh được sử dụng trong âm nhạc


Âm thanh, với những phương thức kết hợp khác nhau của nó, là một yếu
tố do nghệ thuật chế tạo và là một sự biểu hiện nghệ thuật hoàn toàn
khác với những hình thức, tư thế, diện mạo cơ thể trong điêu khắc và hội
hoạ.

Về mặt này, âm nhạc còn có thể so sánh với kiến trúc. Kiến trúc không
còn vay mượn những hình thức ở hiện thực như tự nhiên phơi bày ra nữa,
mà tìm ra những hình thức và đúc rút chúng từ trí tưởng tượng. Âm nhạc
cũng là như vậy trong lĩnh vực của mình : độc lập với sự biểu hiện tình
cảm, nó tuân theo những định luật hoà âm, đưa vào các quan hệ về số
lượng và chất lượng. Mặt khác, bằng những lối khác nhau, nó đưa vào các
hình thức đều đặnvà đối xứng không những vào sự trở về với nhịp độ và
nhịp điệu, mà còn vào cả những biến đổi âm thanh do nó tạo ra. Như vậy,
trong âm nhạc, với sự biểu hiện sinh động tính thầm kín sâu nhất của tâm
hồn, còn có sự tuân thủ chặt chẽ nhất các định luật về sự thông hiểu,
nó gắn kết hai cực dễ dàng tách khỏi nhau. Chính ở sự tách rời ấy mà âm
nhạc đặc biệt có tính chất kiến trúc, thay vì biểu hiện tình cảm, nó bắt
tay xây dựng cả một lâu đài âm thanh cân đối về mặt âm nhạc, đầy trí
tưởng tượng.
Mặc
dù có những chỗ giống nhau ấy, nhưng nghệ thuật âm thanh vân động trong
lĩnh vực hoàn toàn khác so với kiến trúc. Trong hai thứ nghệ thuật này,
các định luật về số lượng và nhịp độ được lấy làm cơ sở, những vật liệu
được phối hợp với nhau theo những định luật ấy, lại mang bản chất đối
lập nhau một cách trực tiếp. Kiến trúc chiếm lĩnh khối lượng vật chất có
trọng lượng, tính không gian trơ ỳ và những hình thức bên ngoài của
khối lượng vật chất ấy. Trái lại, âm nhạc sử dụng âm thanh, cái yếu tố
tràn đầy tâm hồn và sự sống ấy. Đó là yếu tố thoát khỏi không gian,
nhiễm những sự khác nhau về chất lượng cũng như về ssố lượng và hối hả chạy nhanh qua thời gian.

Như thế, các tác phẩm của hai thứ nghệ thuật này thuộc về những lĩnh
vực tinh thần hoàn toàn khác nhau. Trong khi kiến trúc dựng lên những
hình tượng khổng lồ để cho con mắt thưởng ngoạn qua những hình thức
tượng trưng và tính bất động vĩnh hằng của chúng, thì thế giới nhanh
chóng và thoáng qua của âm thanh lại qua cái tai để ăn sâu ngay lập tức
vào bên trong của tâm hồn và làm cho tâm hồn tràn đầy những tình cảm.

3. Sức mạnh của âm thanh


Điêu khắc đem lại những tác phẩm tồn tại độc lập, tính khách quan
tuyệt đối về nội dung cũng như về hình thức biểu hiện nghệ thuật. Nội
dung, đó là tinh thần trong sự tồn tại vừa chung vừa cá nhân, vừa có
tính bản thể vừa có hồn, vừa tự do độc lập với mọi liên hệ bên ngoài và
chỉ dựa vào chính bản thân nó. Hình thức, đó là hình thức tổng thể, với
ba chiều của nó. Vì thế, một tác phẩm điêu khắc giữ được tính độc lập
lớn nhất, như một đối tượng thưởng ngoạn. Bức tranh thì trái lại, như ta
thấy đi vào giao tiếp thầm kín hơn với nguời ngắm, vì nội dung của nó
có tính chủ quan hơn và không còn trình bày một vể bề ngoài đơn giản của
hiện thực đặt ra trước mắt. Do đó, nó không hề muốn tồn tại cho chính
nó, trai lại nó được làm ra chủ yếu để cho người ngắm, thưởng ngoạn và
hưởng thụ. Tuy vậy, đứng trước một bức tranh chúng ta vẫn thấy sự độc
lập nào đó của nó ; vì bao giờ chúng ta cũng đụng chạm tới một đối tượng
tồn tại bên ngoài có quan hệ với chúng ta qua các giác quan và tác động
với chúng ta qua sự nhạy cảm trí tưởng tượng chủa con người. Do đó,
người ngắm có thể đi tới đi lui trước tác phẩm nghệ thuật, chú ý tới chi
tiết này hay chi tiết khác, phân tích toàn thể hay bộ phậ, có những suy
nghĩ khác nhau về chủ đề, do vậy người ngắm giữ được một sự hoàn hảo
khi thưởng ngoạn bức tranh ấy.

Tác phẩm âm nhạc, giống như một tác phẩm nghệ thuật khác, cũng làm
cho người ta bắt đầu phân tích bản thân nó với chủ đề của nó. Nó tác
động vào tai và đem đến cho ta sự thưỏng ngoạn. Thật vậy những âm thanh
vang lên có sự tồn tại cảm tính khác với tâm hồn người nghe. Nhưng,
giống như trong nghệ thuật tạo hình, sự đối lập ấy không đi tới chỗ cố
định một cảnh tượng thường xuyên, bền vững, bên ngoài, có thể cho phép
thưỏng ngoạn những đối tượng tồn tại tự thân chúng. Trái lại, tính chất
của âm thanh là tính tức thời đó là sự biến mất và kế tiếp nhau nhanh
chóng của âm thanh mà không để lại dấu vết gì. Mặt khác, âm nhạc không
làm tách rời những vật liệu bên ngoài với ý tưởng. Đối với thơ, là nơi
mà sự biểu hiện tỏ ra độc lập với những âm thanh của lời, là thứ nghệ
thuật duy nhất trong tất cả các nghệ thuật có đặc quyền mang lại cho
tinh thần một chuỗi ý tưởng và hình ảnh khác nhau qua những hình thức
biểu hiện mà thơ tạo ra. Theo những điều tôi đã nói trên đây, người ta
có thể phản bác rằng âm nhạc cũng thế, nó có thể giải thoát âm thanh
khỏi ý nghĩa của chúng và do đó làm cho chúng được tự do nhưng sự giải
thoát này nói cho đúng không phải là mục đích nghiêm túc của thứ nghệ
thuật này. Trát lại, nghệ thuật này cốt làm cho tất cả các nguồn hoà âm
và giai điệu hội tụ vào sự biểu hiện nội dung đã chọn và tình cảm mà nó
có thể kích thích. Vì sự biểu hiện âm nhạc lấy tính bên trong làm nội
dung, tức là đánh thức ý nghĩa bên trong của chủ đề và tình cảm, cũng vì
âm thanh là hiện tượng thoáng qua và tức thời vượt ra khỏi hình thù và
không gian, nên nó đi sâu ngay lập tức vào tiêu điểm vận động bên trong
của tâm hồn, với tất cả những tác động của nó... Nó chiếm lĩnh ý thức và
lúc này ý thức do không còn đối diện với bất cứ một đối tượng cố định
nào, nên chính bản thân nó lại bị cuốn vào dòng thác nhanh chóng của âm
thanh. Tuy vậy, ở đây cần phải phân biệt những hiệu ứng khác nhau mà âm
nhạc có thể tạo ra, theo những hướng phát triển có thể có của nó. Thật
vậy, nếu như âm nhạc thiếu đi một nội dung sâu sắc hơn hay nói chung,
một sự thể hiện tràn đầy tâm hồn và tình cảm, nếu không bị nhiễm những
gì khác nữa, thì nó có thể đi tới chỗ làm cho chúng ta thấy thích thú
với âm thanh trầm bổng và các giai điệu. Mặt khác, tinh thần có thể thả
theo dòng giai điệu vào hoà âm của âm thanh với một hứng thú thuần tuý
hợp lý, mà chưa lay dộng tâm hồn một cách manh mẽ và cuốn hút tâm hồn
sau đó. Nhất là trong âm nhạc, người ta thấy có sự phân tích thuần tuý
của lý trí, vì thế trong một tác phẩm nghệ thuật này không có cái gì
khác ngoài khả năng kì diệu của một tác phẩm hoàn hảo. Nhưng, nếu chúng
ta bỏ qua quan điểm hợp lí này thả mình theo những ấn tượng một cách
ngây thơ, thì tác phẩm âm nhạc sẽ loi suốn và mang chúng ta đi theo với
tất cả sức mạnh nghệ thuật của nó, tác động tới chúng ta. Sức mạnh của
âm nhạc là một sức mạnh riêng sơ dẳng thuần tuý ; nghĩa là chúng tôi có ý
muốn nói rằng sức mạnh ấy nằm ở chính yếu tố âm thanh

III. NHỊP ĐIỆU

Những hình thức của điêu khắc và hội hoạ chồng chất lên nhau trong
không gian và biểu hiện không gian hữu hình qua một tập hợp những đối
tượng hiện thực, hiển nhiên. Trái lại, âm nhạc chỉ có thể tạo ra âm
thanh bằng cách làm rung lên một vật thể đặt trong không gian và đem lại
một vận động rung cho những bộ phận của vật thể đó. Những rung động ấy
chỉ thuộc vê nghệ thuật khi chúng ké tiếp nhau như vậy, yếu tố vật chất
đi vào âm nhạc chỉ bằng độ dài của những rung động ấy, thay vị đi vào đố
bang dạng thức vật thiệu và hình thù. Mọi vận động của vật thể là được
thực hiện trong không gian, ngay cả khi những hình thù của chúng trên
thực tế đang yên nghỉ cũng giữ được cái quyền biểu hiện giáng vẻ của sự
vận động ; nhưng về tính không gian ấy thì âm nhạc lại không chấp nhận
sự vận động. Do đó, nó chỉ còn có thời gian để những vật liệu tạo ra âm
thanh rung động mà thôi.
Theo
những gì đã nói trên đây, thời gian không cho thấy một sự liền kề tính
cực, giống như không gian. Trái lại, đó là tính bên ngoài tiêu cực,
là sự xoá bỏ tính bề ngoài tương nghịch ; còn hoạt động tích cực là sự
xoá bỏ cái điểm thời gian ấy và để cho điểm này bị điểm khác nuốt vào,
rồi cả điểm khác ấy cũng tiêu tan và nhường chỗ cho một điểm khác...
Trong sự kế tiếp ấy của những điểm thời gian, mỗi âm thanh riêng vừa để
cho gắn chặt vào bản thân nó, vừa được đặt vào mối quan hệ với những âm
thanh khác theo định luật số lượng người ta đo lường thời gian như vậy.
Mặt khác, vì thời gian là sự kế tục của những nhịp thời gian giống
nhau, nên nhịp thời gian ấy được coi là nhịp thời gian thông thường
không hề khác nhau, như thế thời gian càng thể hiện ra như một dòng chảy
đồng nhất của độ dài liên tục. Thế nhưng, âm nhạc lại không để cho thời
gian rơi vào chỗ không xác định ấy ; trái lại, nó quy định thời gian,
áp đặt một nhịp độ cho thời gian và bố trí sự kế tục theo quy tắc của
nhịp độ ấy.
Bằng yếu tố âm thanh, con người không chỉ được nắm bắt ở một mặt
riêng biệt nào đó hay một nội dung xác định của mình, mà chính là cái
tôi thông thường, trung tâm tồn tại tinh thần của nó được lay động và
được đưa vào vận động. Chẳng hạn, ở những khúc nhạc dễ theo dõi và có
tiết tấu rất rõ, chúng ta cảm thấy thích thú vì chính mình nhập với nhịp
độ và xen được giọng của mình vào giai điệu. Trong nhảy múa, âm nhạc
dường như chuyển vào đôi chân chúng ta. Ở đây, toàn bộ con người dường
như bị kích động. Dù đó chỉ là một hành động nhưng phải được thực hiện
một cách đều đặn, và được thực hiện theo một thời gian trở nên có tiết
tấu, muốn vậy trước hết đòi hỏi chúng ta phải biểu hiện sự đều đặn ấy
như thế nào và không cần tới một ý nghĩa nào khác khiến cho hành động ấy
mất đi tính chất thuàn tuý khách quan đối với chủ thể. Sau nữa, chúng
ta muốn sự đều đặn ấy càng tràn đầy tâm hồn càng tốt. Âm nhạc hợp tấu có
hai ưu thấy : Âm nhạc đã hoà theo bước đi của binh sĩ ; truớc tiên nó
nâng đỡ con người bằng chính sự đều đặn, rồi nó cuốn hút con người vào
công việc ấy bằng cách làm cho sự hài hoà ngập tràn tâm hồn.


IV. HÒA ÂM VÀ GIAI ĐIỆU

Trước tiên âm thanh là một cột không khí loãng do những nhạc cụ gió
phát ra hay một dây đàn rất căng ( vẫn giữ được độ đàn hồi ) để có thể
ngân rung lên như các nhạc cụ dây.

Thứ hai ở những nhạc cụ như kèn đồng, chuông... Giữa tính chủ quan tự
nhận biết mình và những âm thanh có một sự đồng cảm huyền bí khiến cho
sự biểu hiện những tình cảm không được và sâu lắng đòi hỏi phải có sự
rung động của tâm hồn (được biểu hiện như vậy ) đó là điểm tâm linh ;
còn âm thanh chỉ là tiếng vang vật chất của nó mà thôi...

Thứ ba, chúng ta có thể coi giọng người là nhạc cụ tự do nhất và hoàn
hảo nhất bởi âm sắc của nó tụ hội trong bản thân tính chất của những
nhạc cụ và những nhạc cụ dây, một mặt đó là một cột không khí vang rung
lên, mặt khác, những cơ của giọng nói thực hiện chức năng của những sợi
dây mà người ta làm rung ngân lên mạnh mẽ. Chúng ta cũng đã thấy khi nói
tới màu da của con người, rằng, nó tạo ra một sự thống nhất lý tưởng
của những màu sắc khác, do nó là màu sắc hoàn hảo nhất. Cũng vậy, giọng
người hàm chứa một yếu lĩnh lí tưởng của các âm thanh ẩn tàn trong các
nhạc cụ khác và có liên quan với chúng theo những sự khác nhau riêng
biệt. Vì thế nó là âm thanh hoàn hảo, điều đó làm cho nó ăn nhập với
những nhạc cụ khác một cách thích hợp nhất và đẹp nhất. Đồng thời, giọng
người được nhận biết như tiếng vang của chính bản thân tâm hồn. Đó là
âm thanh trực tiếp thoát ra từ bên trong, là biểu hiện tự nhiên của nó,
một biểu hiên bên ngoài của tâm hồn và tâm hồn được chi phối ngay lập
tức. Trái lại, ở những nhạc cụ khác, lại là một vật thể dửng dưng đối
với tâm hồn, những cảm giác của nó, xa lạ với tâm hồn và cấu trúc, được
làm cho rung vang lên. Còn trong tiếng hát thì tâm hồn lấy ra những âm
thanh từ chính bản thân nó. Vì thế, giọng người, trong sự phát triển của
nó, đem lại một tính đa dạng lớn và nhiều biến hoá giống như cách cảm
nhận của cá nhân.

Giai điệu và sự tự do vốn có của nó

Trong
sự phát triển tự do của nó, giai điệu đúng là bay lượn ở bên trên nhịp
độ, tiết tấu và hoà âm. Nhưng, nó chẳng có phương tiện để thực hiện nào
ngoài những vận động tiết tấu của những âm thanh, trong những mối quan
hệ cốt yếu và cần thiết của chúng. Sự vận động của giai điệu bị khép vào
điều kiện tuyệt đối này : nó không thể đòi hỏi có một sự tồn tại riêng
biệt, độc lập với tính đều đặn mà chính bản thân của sự vật bắt buộc
phải có. Nhưng, trong mối quan hệ mật thiết ấy với hoà âm, giai điệu có
thể nói là không thể mất đi sự tự do của nó ; nó chỉ thoát khỏi sự tuỳ
tiện và những ngông cuồng của tính chủ quan, trong những sự phát triển
thất thường của tình cảm những biến đổi kì lạ của nó và qua đó nó đạt
tới sự độc lập đích thực của nó. Sự tự do thật sự không đối lập với định
luật như một sức mạnh xa lạ mà mang tính áp đảo và cuồng nhiệt khiến
cho nó tách ra khỏi bản thân nó và trở nên không trung thành với chính
nó, một khi tách khỏi những qui tắc ấy. Hơn nữa, đến lượt chúng ta thấy
nhịp độ, tiết tấu và hoà âm, tự thân chỉ là những sự trừu tượng hoá mà
khi nằm trong sự cô lập, chúng không có một giá trị âm nhạc nào hết, chỉ
có thể giành được một sự tồn tại âm nhạc bằng giai điệu ở bên trong nó,
như những yếu tố và những khía cạnh của bản thân giai điệu.


V. NHỮNG PHƯƠNG TIỆN DIỄN TẢ CƠ BẢN CỦA ÂM NHẠC

1. Giai điệu

Trong toàn bộ phương pháp diễn tả của âm nhạc, giai điệu chiếm vị trí
trung tâm. Vai trò của giai điệu đặc biệt quan trọng, giai điệu tạo
đường nét, hình tượng chính của tác phẩm.

Giai điệu là sự trình bày một ý nhạc, sắp xếp trong một bè ( voix ).
Giai điệu hầu như bao giờ cũng được dùng để diễn đạt một nội dung cơ bản
của tác phẩm. Trong số lớn các làn điệu, các bài dân ca hoặc trong một
số đoạn nhạc nào đó ở những rác phẩm nhiều bè, giai điệu được trình bày
thành tổ chức độc lập, hoàn thiện có tính qui luật. Còn trong âm nhạc
nhiều bè, giai điệu được hiểu như một bè dẫn dắt tiêu biểu cho những
khía cạnh quan trọng nhất trong nội dung tạo hình của tác phẩm.

Giai điệu còn là sự tổng hợp của một số phương pháp diễn tả. Những khía
cạnh quan trọng nhất của giai điệu là mối tương quan cao thấp, dài ngắn
của âm thanh cũng như cả mối tương quan về hoà âm điệu tính ( hoà âm
chiều ngang ).

Nếu một giai điệu, tước bỏ phần thiết tấu (độ dài ngắn của âm thanh )
có thể mất đi tính sinh động, tính rõ ràng và phần nào không nói lên
được sự tương quan về hoà âm điệu tính (âm ổn định và âm không ổn định
trong một điệu tính ).

Đối với giai điệu, âm điệu là khía cạch quan trọng nhất, thể hiện bản
chất của giai điệu. Qua âm điệu ta có thể hiểu được một cách đầy đủ các
khía cạnh khác nhau, các màu sắc khác nhau của từng giai đoạn. âm điệu
bắt nguồn từ tiếng nói của con người, có qui luật chung và qua âm điệu
còn thể hiện màu sắc sinh động của từng địa phương, từng dân tộc. Những
âm điệu của tiếng nói với âm điệu dùng trong âm nhạc có sự khác nhau về
bản chất. Ngay trong âm điệu tiếng nói có đặc điểm “ vuốt “ thì những độ
cao thấp của các âm cũng không được xác định, còn âm điệu của âm nhạc
là sự hình thành độ cao thấp chính xác của âm.
Trong âm nhạc âm điệu đóng một vai trò quan trọng đặc biệt, là sự sang tạo... Vì vậy âm nhạc trước hết là nghệ thuật của âm điệu.

Phân tích một tác phẩm âm nhạc cần phải chú ý đắc biệt vào việc phân
tích khía cạnh âm điệu, đó là một trong điểm xuất phát đầu tiên của việc
phân tích.

Âm điệu trong âm nhạc được thể hiện bằng quãng. Quãng là tiêu biểu của
âm điệu âm nhạc trong những điều kiện âm nhạc khác nhau về điệu thức
nhịp điệu, tốc độ, cường độ. Khi thay đổi các điều kiện này, một âm điệu
nào đó có thể mang một ý nghĩa diễn tả khác.

Ngoài âm điệu còn cần chú ý đến các lối tiến hành của giai điệu. Hầu
hết các giai điệu đều lượn sóng gồm những tiến hành đi lên và tiến hành
đi xuống lần lượt thăng bằng lẫn cho nhau tạo thành. Tiến hành đi lên
thường dùng để biểu hiện sự căng thẳng tăng dần và thường kèm theo cả
cường độ cũng tăng thêm. Tiến hành đi xuống thường biểu hiện sự giảm bớt
độ căng thẳng và thường kèm theo cả giảm dần về cường độ.

Một trong những điều kiện căn bản của sự biểu hiện giai điệu là quan hệ
giữa các bước nhảy và các bước đi liền bậc. Những bước đi liền bậc
trong giai điệu là dạng chính của sự chuyển động. Lối tiến hành này tạo
sự nhịp nhàng, làm cho giai điệu liên tục trôi chảy.

Trong giai điệu sau một tiến hành bình ổn cùng hướng thường có một bước
nhảy ( quãng nhảy ) ngược hướng, Trái lại sau một bứoc nhảy xa tạo sự
căng thẳng, thường tiến hành bình ổn và ngược hưóng với bước nhảy đó để
điền đầy vào chỗ trống do bước nhảy tạo ra.

Làn sóng giai điệu đi lên đến điểm cao nhất thì gọi là cao trào hay cao
điểm (đỉnh cao của giai điệu ). Mỗi giai điệu có thể có nhiều cao trào,
trải ra trong các làn sóng giai điệu. Trong quá trình giai điệu đi lên
theo kiểu bậc thang, có thể có những cao trào bộ phận. Cao trào chính là
cao điểm quan trọng nhất, ở đó thể hiện sự căng thẳng nhất của giai
điệu có ý chung cho toàn bộ hình thức, cho toàn bộ giai điệu. Nói chung,
bất cứ một ý nhạc tương đối hoàn chỉnh hay một hình thức âm nhạc nào đó
đều có cao trào chính. Cao trào chính thường xuất hiện ở chỗ 3/4 tác
phẩm, gọi là điểm chia vàng. Bố trí cao trào một cách thích hợp cũng là
một trong những nguyên tắc quan trọng nhất cho sự cấu trúc hình thức của
tác phẩm. Thí dụ như bài ca hi vọng của Văn Ký, cao trào chính
xuất hiện ở cuối nhịp thứ 23 với cường độ lớn nhất so với toàn bài với
âm cao nhất được ngân sang nhịp sau, Ở đó là chỗ thể hiện căng nhất của
toàn bài mà trước đó đã có chuẩn bị, giai điệu được tiến hành đi lên dần
đến cao trào chính. Các cao trào bộ phận của mỗi làn sóng giai điệu
cũng thường đặt ở vị trí cuối trong từng bộ phận.

Sau đó cao trào giai điệu thường đi xuống theo kiểu đi thẳng một mạch
hoặc có thể tiến hành đi xuống dần dần kiểu bậc thang. Ngoài ra cũng còn
có kiểu tiến hành đi xuống đột ngột.

Khi phân tích, tìm cao trào chúng ta cần phải chú ý để khỏi lầm lẫn,
bởi vì không phải cao điểm của giai điệu đã là cao trào nếu như lại kèm
theo sự giảm dần về độ căng, giảm dần về cường độ. Cao trào không những
là ở âm khu tương đối cao mà mà còn tổng hợp cả một số phương pháp diễn
tả khác nữa như : ở những bậc hoặc những âm không ổn định so với điệu
thức, có sự thay đổi tạo sự không ổn định về nhịp điệu cùng với cường độ
tăng dần...

2. Hoà âm


Hoà âm là một trong những phương pháp diễn tả quan trọng nhất của âm
nhạc. Hoà âm trong âm nhạc ví như văn phạm trong ngữ văn. Hoà âm là động
lực sinh ra hình thức cấu trúc của tác phẩm. Hoà âm còn làm rõ nét cho
hình tượng âm nhạc. Khi nghiên cứu hào âm của một tác phẩm lưu ý ba khía
cạnh chính.



  • Hoà âm dùnh để bổ xung và làm rõ cho giai điệu
  • Hoà âm tạo mầu sắc cho giai điệu
  • Lí luận về công năng

Hoà âm liên quan đến những phương pháp diễn tả khác, trước hết là liên
quan đến giai điệu. Hoà âm đã bổ sung và làm rõ khía cạch nội dung của
giai điệu, qua đó tìm thấy những chi tiết khác nhau trong giai điệu. Thí
dụ như hoà âm của một tác phẩm hoặc một đoạn nào đó trong tác phẩm thay
đổi thường xuyên, sẽ làm cho giai điệu trở nên căng thẳng và không ổn
định. Ngược lại, nếu hoà âm ít thay đổi, giai điệu thường dàn trải mang
tính ca xướng. Vì vậy bản thân giai điệu có thể được thay đổi khá lớn do
sự thay đổi của hoà âm. Thí dụ như khi nhắc lại một giai điệu hoặc một
phần nào đó của hình thức nếu hoà âm thanh đổi thì giai điệu ấy hoặc một
phần nào đấy của hình thức có mầu sắc khác – sáng hơn hoặc tối hơn.
Chúng
ta có thể nghe tác phẩm của betoven, sonat piano số 23 chương I, chủ đề
I lúc ở phần trình bày và lúc bắt đầu của phát triển có màu sắc khác
nhau.

Khi nghiên cứu hoà âm, tính công năng là bản chất quan trọng nhất, là
yếu tố tạo hình và có ý nghĩa chủ yếu cho sự hình thành của hình thức âm
nhạc.

Trong lĩnh vực hoà âm, tính công năng hiểu theo nghĩa hẹp thể hiệéọư
tương phản, đối chọi giữa hợp âm chủ với những hợp âm khác của điệu
tính. Tất cả những hợp âm khác ngoài hợp âm chủ của điệu tính đều là
những hợp âm không ổn định. Trong các loại hợp âm, động lực quan trọng
nhất là sự xung đột giữa hai loại công năng không ổn định đối lập nhau
tức là giữa hợp âm át với hợp âm hạ át. Sự xung đột dó được giải quyết
bằng hợp âm chủ theo công thức TSDT ( tiến hành kết ).

Khi phát triển một hình thức lớn ( có khi cả hình thức nhỏ cũng vậy )
nếu chỉ dùng một điệu tính cho toàn hình thức thì chưa đủ. Muốn tạo nên
sự căng thẳng xung đột, muốn tạo nên những màu sắc mới, phong phú hơn
phải dùng đến phương pháp chuyển điệu. Do vậy, nếu hiểu theo nghĩa rộng
tính công năng còn là sự trình bày mối quan hệ giữa các diệu tính. Vai
trò chủ ở đây có nghĩa là điệu tính bắt đầu và kết thúc ở một hình thức
âm nhạc gọi là điệu tính chính. Các điệu tính khác có tĩnh xuất hiện
trong quá trình phát triển của hình thức gọi là những điệu tính phụ
thuộc. Sự xuất hiện của những điệu tính phụ thuộc tạo nên sự căng thẳng ở
mức độ nhất định có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của hình thức. Do
đó công thức TDST cần hiểu theo nghĩa rộng chứ không chỉ hiểu đơn thuần
là sự lựa chọn cụ thể những hợp âm có công năng D và công năng S tron
gmột điệu tính mà còn để chỉ một trình tự sắp xếp điệu tính tạo được sự
xung đột tương phản để cuối cùng giải quyết bằng tái hiện lại điệu tính
chính.

3. Tiết tấu và tiết luật

Tiết tấu là một trong những phương pháp diễn tả của âm nhạc. Tiêt tấu
là liên quan chặt chẽ tới ngôn ngữ, với ngữ âm trong ngôn ngữ, với hơi
thở và những hoạt động về tâm sinh lí của con người. Hiểu rộng hơn tiết
tấu có cả trong cấu trúc của thơ ca, trong những chi tiêt và cấu trúc
chung của tác phẩm nghệ thuật tạo hình, cũng như trong những tác phẩm
kiến trúc. Qua đó ta thấy khả năng, hiệu quả của những hoạt động tiêt
tấu là rất lớn.

Tiết tấu là một yếu tố của phương pháp diễn tả âm nhạc, nó được phát
triển trong giai đoạn rất sớm của lịch sử khi mà những giai điệu và
những tổ chức của điệu thức còn chưa có. Là nhân tố quan trọng, tiết tấu
chiếm một vị trí chủ yếu trong hệ thống những phương pháp diễn tả của
âm nhạc.

Theo nghĩa hẹp của từ, tiết tấu chỉ sự liên tục có tổ chức độ dài ngắn
của âm thanh. Còn theo nghĩa rộng, tiết tấu là mối tương quan về thời
gian giữa các phần của một tác phẩm âm nhạc. Tiết tấu là một trong những
yếu ttó có tác dụng trực tiếp đến tính tạo hình của một tác phẩm. Vai
trò của tiết tấu trong sự phát trểin của hình thức âm nhạc còn tùy thuộc
vào những điều kiện bề thể loại cũng như còn phụ thuộc vào phong cách.
Trong những đường nét chung nhất, vai trò của tiết tấu có thể rút thành
hai chức năng chính :
a.Tiết tấu là nhân tố tích cực cho sự phát triển
Nhiều
trường hợp khi cần tăng dần sự căng thẳng trong quá trình phát triển
thường do tiết tấu thay đổi liên tục, phức tạp dần. Ta có thể tìm thấy
rõ chức năng này qua chương II Giao hưởng số 7 của Betoven, lúc đầu tiết
tấu không phức tạp lấm.

Về sau, âm nhạc thay đổi, chuyển động với tiết tấu nhanh hơn. Độ dài
ngắn của âm thanh, trường độ của các âm đã được chuyển sang những nốt
ngắn hơn – móc đôi. Sự căng thâửng cũng được tăng lên, tạo những đường
nét bi hung thể hiện bằng những chùm 3. Trong cả một vùng trước cao trào
( tù nhịp 150 đến 221 ) tính tích cực, khẩn trương đã đạt đế mức độ
lớn. Với phương pháp này việc phát triển đến cao trào chính là dựa tren
sự phức tạp hoá tiết tấu.
b. Tiết tấu là nhân tố tạo ra tính thống nhất

Trong trương hợp này, tiết tấu phần lớn không thay đổi. Ta có thể gặp
trong những etuyt của Sopanh ( hãy xem những etuyt op, 10- số 1, 2, 4,
5, 10, 11 và op.25 - số 2, 3, 4 và 9) của Lixt, Xcriabin. Trong những
tác phẩm này thường có một kiểu đường nét tiết tấu trong cả một đoạn
lớn, dùng để thống nhất hành động gây tính thống nhất cho tác phẩm.

Khái niệm về tiết tấu trong thực tế còn được biểu hiện trong nghĩa rộng
hơn như tren đề cập tới – đó là mối quan hệ về thời gian giữa các phần,
các chương của một tác phẩm. Tác dụng của nó giữ vai trò tích cực cho
toàn bộ dàn ý trong cấu trúc hây tính cân bằng thích hợp. Tiết tấu còn
có liên quan đến tiết luật.
* Tiết luật

Là một trong những phương pháp diễn tả của âm nhạc. tiết luật là sự
luân phiên của các phách mạnh hoặc phách nhẹ. Giữa nhịp này với nhịp
khác cách nhau bằng vạch nhịp. Trừ những trường hợp đặc biệt thay đổi
trọng âm, tạo ra những phách đảo , có nghĩa là trọng âm chuyển sang
phách yếu thành phách mạnh.
Trong âm nhạc có hai dạnh chính về sự hình thành của tiết luật :
Tiết luật nghiêm khắc với vị trí cố định không thay đổi của trọng âm trong các nhịp.
Tiết
luật tự do, trong đó vị trí trọng âm được thay đổi. Tiết luật tự do
chúng ta có thể gặp trong đan ca của ta như trong chèo và cả dân ca nga.
Tiết
luật tự do có thể xuất hiện ở những hình thức khác như những đoạn hát
nói trong nhạc kịch hoặc trong những đoạn viết cho nhạc cụ độc tấu không
ghi thành nhịp trong khuôn khổ tự do được viết là “ ad libitum”.
Tiết
tấu và tiết luật là hai mặt của quá trình phức tạp về khía cạnh tổ chức
thời gian trong hình thức âm nhạc. Chúng ta không thể tách rời nhau mà
rất thích ứng, phù hợp với nhau.

Phưong pháp sử dụng tiết luật chính xác làm cho âm nhạc sinh động, tạo
những khả năng vô tận để thể hiện các hình thức khác nhau của tác phẩm.
4. Âm sắc

Âm sắc là màu sắc âm thanh. Âm sắc chiếm một vị trí khá đặc biệt trong
những phương pháp diễn tả, không phụ thuộc vào một cơ cấu logic tương tự
như cơ cấu của tiết tấu, điệu thức. Âm sắc đưa ra những sự so sánh có
thính mô tả với hiện tượng thực tiễn như sáng, tối, dữ dội, sắc nhọn...

Khả năng diển tả của âm sắc ngày càng được hết sức chú ý. Dần dần,
trong quá trình phát triển lịch sử của nghệ thuật âm nhạc, vai trò của
âm sắc được phát triển một cách đặc biệt, khi nó trở thành tiêu biểu cho
những yếu tố tạo hình ( thí dụ như âm sắc trong những tác phẩm giao
hưởng và nhạc kịch của Rimxki Cooxacôp, những noctuyet của Debuytxi...).

Âm sắc có liên quan đến một số phuơng pháp diễn tả, trước hết là liên
quan đến giai điệu. Âm sắc tô màu cho giai điệu làm cho màu sắc của giai
điệu trở nên phong phú. Các nhà soạn nhạc thường hay tận dụng khả năng
này, đặc biệt là những tác phẩm viết cho dàn nhạc. Mỗi một giai điệu,
mỗi một giai đoạn trong sự phát triển hình thức có liên quan đến những
âm sắc đã được chọn hoặc là sự tổng hợp của âm sắc. Trong âm nhạc của
thế kỉ XIX, XX, âm sắc được coi là một yếu tố quan trọng cho sự thể hiện
của giai điệu. Trong sáng tác của một số nhà soạn nhạc, âm sắc còn
đượnc giữ vai trò quan trọng cho sự thể hiện hình tượng chủ đề. Ở một số
tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng cũng như cho nhạc kịch, các nhà
soạn nhạc còn dùng cả âm sắc chủ đạo để tạo tính thống nhất cho tác
phẩm. thí dụ như nhân vật nữ bá tước trong vở kịch con đầm pich của Traikopxki, luôn luôn dùng âm sắc của kèn phagot và clarinet ở tầm cử thấp để diển tả.

Những nhà phối khí lành nghề như Bécliôd, Vácne, Raven, Xtravinxki,
Prôcôphiép... Thường có những cách phối khí rất độc đáo và những cách sử
dụng âm sắc các nhạc cụ rất tinh tế. Âm sắc còn liên quan đến sự thay
đổi âm khu của giai điệu.
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 985
Points : 2798
Danh tiếng : 0
Join date : 13/03/2011

https://chobe.forum-viet.com

Về Đầu Trang Go down

Kiến thức Âm nhạc đại cương Empty Re: Kiến thức Âm nhạc đại cương

Bài gửi by Admin Sun Jul 31, 2011 10:03 am

5. Âm khu

Mặc dầu âm khu chỉ ở mức độ thứ hai trong toàn bộ hệ thống phương pháp
diển tả, nhưng khu âm cũng có ảnh hưởng nhất định đến một vài phương
pháp diển tả như giai điệu, âm sắc và ở một vài trường hợp lại đóng vai
trò ở vị trí thứ nhất.
Giai
điệu ở những khu khác nhau có ý nghĩa khác nhau về màu sắc của âm
thanh. Âm khu có ảnh hưởng rất rõ đến âm sắc, cho nên mỗi một nhạc cụ
(đặc biệt là nhạc cụ gõ ) ; mỗi một âm khu có một màu sắc riêng phù hợp
cới những khía cạnh khác nhau của hình tượng và tình cảm.
6. Nhịp độ

Nhịp độ thường liên quan đến tiết tấu, tiết luật và giai điệu. Nhịp độ
có ảnh hưởng rất rõ đến tính chất của giai điệu. Cùng với tiết tấu và
tiết luật, nhịp độ là một trong những nhân tố tạo nên sự chuyển động
trong âm nhạc.
Nhịp
độ nhanh làm cho âm nhạc sinh động và linh hoạt. Nhịp đọ còn liên quan
đến khía cạnh tạo hình cũng như tính thể loại của tác phẩm. Ví dụ như
loại hát ru, loại môduôcca... Mỗi loại đều có một nhịp độ chính xác để
khẳng định tính điển hình của từng hình tượng. Chúng ta có thể nghe
Chương I của những bản giao hưởng số 5, 8, 10 của sôxtakôvích, sẽ thấy
nhịp độ luôn thay đổi để phù hợp với nội dung của tác phẩm đòi hỏi, tạo
tính kịch cũng như đáp ứng với sự đòi hỏi của hình tượng âm nhạc.
7. Cường độ
Cường
độ là một phương pháp diễn tả của âm nhạc. Cường độ dùng để xác định độ
to nhỏ của âm thanh. Cường độ liên quan chặt chẽ đến hướng chuyển động
của đường nét giai điệu. Giai điệu tiến hành đi lên, màu sắc của âm
thanh sáng sủa dần, tạo cảm giác căng thẳng đòi hỏi tăng dần cường độ.
Ngược lại, khi giai điệu tiến hành đi xuống, tạo cảm giác bởi độ căng và
cường độ của âm thanh cũng đòi hỏi giảm dần. Tuy cũng có trường hợp hãn
hữu là ngược lại.
Cường
độ cũng là một khía cạnh quan trọng của phương pháp diễn tả, thiếu nó,
có thể về phương diện nào đấy của một nội dung tác phẩm không được thể
hiện một cách đầy đủ.
8. Cách cấu tạo

Cấu tạo là cách thức trình bày tổ chức âm thanh trong các tác phẩm âm
nhạc - gồm hai dạng chính : một bè và nhiều bè. Cách cấu tạo một bè chia
thành ba dạng : tạo bè đơn, đồng âm và tăng đôi trong một vài quãng
tám. Cách cấu tạo một bè chứa đựng khía cạnh tâm lí quan trọng. tập
trung sự chú ý và đưa vào đó nội dung âm nhạc rõ ràng, Không phải ngẫu
nhiên sáng tác dân gian đã dựa trên sự trình bày một bè như các bài dân
ca cũng như giai điệu hoà tấu nhạc cụ dân gian. Bản chất của sự trình
bày một bè được sử dụng cả trong những tác phẩm nhiều bè phức tạp. Đặc
biệt, thường thấy vào lúc bắt đầu của các chủ đề như bắt đầu sonat số 23
và giao hưởng số 5 của Betoven...
Sự
tăng đôi hai hay nhiều các quãng tám trước hết gặp ở những tác phẩm
viết cho dàn nhạc trong những chỗ đòi hỏi sự tập trung lớn của sự căng
thẳng như cao trào chính ở Chương I trong giao hưởng số 5 của
Sôxtakôvích.
Cấu tạo nhiều bè cũng được chia thành ba dạng : chủ điệu ( homopho-nie ), bè tòng ( héterophonnie ) và phức điệu ( polyphonnie).
Cách cấu tạo chủ điệu là bao gồm một bè có ý nghĩa dẫn dắt còm những bè khác là đệm, có ý nghĩa phụ thuộc.

tòng cũng là loại cấu tạo nhiều bè, trong đó một bè có ý nghĩa dẫn dắt,
những bè còn lại trình bày có tính tiến hoá, hoạ lại những âm điệu điển
hình nhất của bè chính.
Cách
cấu tạo phức điệu là dạng phức tạp nhất của nhiều bè, trong đó tất cả
các bè đều phát triển và là những giai điệu độc lập. Trong phức điệu có
hai loại chính là : phỏng mẫu và tương phản.
Cách
cấu tạo còn phụ thuộc vào tính thể loại của tác phẩm. Bởi vì tron gthực
tế còn gặp những quan niệm như cách cấu tạo kiểu dàn nhạc, kiểu hợp
xướng, kiểu hoà tấu thính phòng, kiểu viết cho đàn piano...


VI. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP DIỄN TẢ CỦA ÂM NHẠC

1. Ngôn ngữ âm nhạc

Hình tượng nghệ thuật nào cũng mang tính chất cảm tính, cụ thể hay nói
cách khác, tác phẩm nghệ thuật nào cũng phải nhờ đến những yếu tố vật
chất để tác động vào giác quan ( chủ yếu là thị giác và thính giác ) của
người thưởng thức. Như vậy, mỗi loại hình nghệ thuật đều dựa vào, những
vật liệu riêng của nó, những phương tiện vật chất đặc thù để xây dựng
nên hình tượng trong tác phẩm. Văn học dựa vào ngôn ngữ ; điêu dựa vào
đất, đá, thạch cao ; hội hoạ , màu sắc ; múa, điệu bộ của con người và
âm nhạc là âm thanh.
Nhưng
chỉ với chất liệu, vẩn chưa đủ xây dựng thành tác phẩm nghệ thuật. Một
cuốn sách - rất nhiều từ ngữ - chưa phải là một bộ tiểu thuyết ; hoặc
những lời nói hằng ngày - bằng ngôn ngữ - không phải là một bài thơ.
Một hộp màu, một vài thùng sơn màu xanh, màu đỏ đổ loang lổ
trên đường không phải là một bức tranh. Một góc phố với tiếng cười,
tiếng xe máy rú ga. tiếng còi ôtô không phải là một bản giao hưởng ; một
máy gi âm thu đầy đủ mọi thứ âm thanh huyên náo trong một buổi chợ
không bao giờ là một tác phẩm âm nhạc... Một mớ chất liệu hỗn độn chồng
chất lại không bao giờ trở thành hình tượng nghệ thuật. Chất liệu phải
trải qua bàn tay nghệ sĩ sắp xếp, nhào nặn, chỉnh lí theo một cách thức
nhất định mới trở thành tác phẩm nghệ thuật. Cách thức mà người nghệ sĩ
vân dụng để điều khiển chất liệu đó là những phương thiện diễn tả của
nghệ thuật. Mỗi loại hình nghệ thuật đều có một hệ thống những phương
tiện diễn tả của nó.
Hệ
thống những phương tiện diễn tả là cách thức sắp xếp, tổ chức chất liệu
nhằm biểu hiện nội dung của tác phẩm, nhằm thực hiện ý đồ của tác giả.
Hệ thống những phương tiện diễn tả này là kết quả của trí tuệ hàng ngàn
năm của loài người, là kết tinh trí thứ của không biết bao nhiêu thế hệ
và những nghệ sĩ thiên tài. Đó là một quá trình thừa kế và phát triển,
tiếp thu và sáng tạo. Đó là những kinh nghiệm đã được sàng lọc và trở
thành những quy ước chung, những quy ước này dần dần được nâng lên thành
những luật lệ sáng tác - những luật lệ này thậm chí có khi đã trở thành
những giáo điều trói buộc nghệ sĩ.
chất
liệu đặc thù với phương tiện diễn tả riêng tạo thành ngôn ngữ nghệ
thuật. Mỗi loại hình nghệ thuật đều có một ngôn ngữ nghệ thuật riêng của
nó và và như ta thường nói : ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ điện ảnh, ngôn
ngữ hội hoạ, trong trường hợp loại hình nghệ thuật mà chúng ta đang tìm
hiểu gọi là ngôn ngữ âm nhạc. Cần phân biệt ngôn ngữ thông thường, ngông
ngữ giao tiếp hàng ngày với ngôn ngữ nghệ thuật. Tuy có sự giống nhau
về bản chất và vai trò ( cùng nhằm mục đích biểu đạt tư tưởng chung cho
nhiều thời đại...) nhưng chúng lại khác nhau về chức năng cơ bản và phạm
vi áp dụng. Nếu như ngôn ngữ giao tiếp được dùng làm công cụ trao đổi
về mọi mặt và trên mọi lĩnh vực, thì ngôn ngữ âm nhạc chỉ dùng để xây
dựng và củng cố hình tượng âm nhạc về mặt vật chất ; nếu ngôn ngữ giao
tiếp có phạm vi vô cùng rộng lớn và gần như khôn gbị hạn chế thì ngôn
ngũ âm nhạc chỉ hạn chế trong lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc ; nếu ngôn ngữ
giao tiếp tồn tại và phát triển như một hiện tượng trong xã hội thì
ngôn ngữ âm nhạc chỉ tồn tại và phát triển dưới hình thức các tác phẩm
âm nhạc cụ thể.
Vậy ngôn ngữ âm nhạc là gì ? Nói
ngắn gọn, ngôn ngữ âm nhạc là ngôn ngữ âm thanh ; với âm nhạc âm thanh
được sử dụng như một thứ ngôn ngữ để truyền đạt, thong tin một nội dung
nhất định. Nhưng cần phân biệt âm thanh trong ngôn ngữ âm nhạc và âm
thanh trong đời sống ( tự nhiên và xã hội ). Có thể nói, mọi vật chất
khi giao động sẽ tạo ra những âm, có những âm tai nghe được, nhưng cũng
có những âm vì tần số giao động quá cao ( trên 20.000 trong một giây ),
được gọi là siêu âm thì tai ta không nghe được. trong giới hạn của thính
giác, có thể nói âm là tiếng động quanh ta, trong cuộc sống của ta.
Vậy
thì phải chăng, âm nói chung, tiếng động nói riêng là chất liệu, là
phương tiện diển tả của âm nhạc ? Chẳng phải là từng có những ca sĩ
trong khi hát đã xen vào những đoạn lặp lại tiếng súng nổ, tiếng bom
rơi, tiếng máy bay bổ nhào ríu rít... Là gì ? Chẳng phải là từng có
những nhóm biểu diễn có đôi lúc lặp lại ( bằng giọng người ) tiếng ngựa
hí, tiếng beo gầm... Đó sao ? Chẳng phải đã từng có những tác phẩm nhạc
đang cố bắt chước tiếng gà gáy, tiếng chó sủa, tiếng vó ngựa tiếng bánh
xe lăn... Đó sao ? Dĩ nhiên những sự việc kể trên là có thật, xong không
phải mọi tác phẩm âm nhạc trong nước và trên thế giới đều làm như thế ?
Hơn nữa, đó cũng chỉ là phần, những mẫu rất nhỏ so với tổng thể của tác
phẩm âm nhạc. Nếu chỉ với những âm tựu nhiên vốn có trong cuộc sống để
xây dựng nên hình tượng nghệ thuật, để sáng nên tác phẩm nghệ thuật thì
lại thuộc về một loại hình nghệ thuật khác đang được thể nghiệm trên thế
giới : nghệ thuật truyền thanh. Cũng như từ động tác thân thể con người
mà có hai loại hình nghệ thuật khác nhau : nhảy múa và kịch câm.
Người
ta có thể ngụy biện cho quan điểm lấy âm làm phương tiện chủ yếu, là
chất liệu dặc thù của âm nhạc bằng cách trở về cuội nguồn và đưa ra cái
hình thức âm nhạc thời nguyên thuỷ. Một bầy người nguyên thuỷ, sau một
buổi đi săn, thì người biểu diễn và người thưởng thức cùng la hét, cùng
đập que vào nhau, cùng đập tay, dập chân... Có lễ ở đây loại nhạc cụ phổ
biến nhất và chung cho cả trái đất này – là bộ gõ. Âm chẳng phải là
chất liệu của âm nhạc đó sao ?`
Dần
dần, con người nguyên thuỷ còn tìm cách tạo ra những tiếng động, những
âm ( do con người tạo nên ) để bắt chước những âm thanh tự nhiên : tiếng
chim hót, tiếng thú gầm, tiếng suối chảy, tiếng mưa rơi, tiếng gió rít,
tiếng sóng vỗ... Âm nhạc chẳng phải đã bắt nguồn từ sự mô phỏng, sự bắt
chước các âm thanh thiên nhiên và tự nhiên đó sao ?
Nhưng
thử hỏi, cái buổi sinh hoạt văn nghệ bên đống lửa ấy có phải là âm
nhạc, âm nhạc theo nghĩa như ta hiểu hiện nay ( là một loại hình nghệ
thuật có đặc trưng, đặc thù của nó ) không ? Hay là một thứ nghệ thuật
tỏng hợp ? Ở đây càn có một cách nhìn biện chứng về ngọn nguồn và quá
trình phát triển của loại hình nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói
riêng. Con người trong những ngày tháng vừa thoát thai từ loài vượn,
trình độ tri thức, kiến thức, nhận thức thấp kém. Trong hoàn cảnh đó,
mọi hiện tượng và hình thái ý thức của con người đều chưa phân rõ mà
mang tính tổ hợp. Sinh hoạt văn nghệ bên đống lửa như vậy chưa phải là
văn nghệ, nghệ thuật thuần tuý – như ta hiểu ngày nay – mà nó còn bao
gồm cả những yếu tố khác : ma thuật chứ chưa phải là tôn giáo, khoa học
như là một cách truyền đạt những kinh nghiệm trong lao động sản xuất,
triết học như là một cách quan niệm về cuộc sống... Vậy tại sao vơ về
mình để coi đó là âm nhạc ? Cái hình thái ý thức xã hội sau này – trong
đó có nghệ thuật. Lịch sử càng tiến lên, con người càng phát triển về
nhân thức, sự phân chia ranh giới giữa các hình thái ý thức xã hội, giữa
các mặt hoạt động tinh thần cảu con người càng rõ hơn. Từng hình thái ý
thức dần dần tựu khẳng định và phân chia ranh giới bằng đối tượng, bằng
chất liệu và phương tiện, bằng hình thức phản ảnh và còn bằng cả mặt
mạnh và mặt yếu của từng loại hình, loại thể đó.
Còn
sự bắt chước, mô phỏng âm thanh trong thiên nhiên là nguồn gốc xa xưa
nhất của nghệ thuật âm nhạc. Vậy nên âm, tiếng động trở thành chất liệu
đặc thù, phương tiện chủ yếu của âm nhạc ư ? Lại rơi vào một quan niệm
siêu hình về sự phát sinh và phát triển của nghệ thuật mất rồi ! Tại sao
người lớn cứ phải lấy trẻ con làm mẫu ? Rõ ràng tính cách ( với nghĩa
đầy đủ của từ này ) của một con người bao giờ cũng được xem xét kể từ
tuổi vị thành niên ! Nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng cũng có
tuổi ấu thơ và tuổi thành người của nó. Trong những giai đoạn sơ khai,
âm nhạc xuất hiện gần như chỉ với bộ gõ – nghĩa là chỉ với tiết tấu -
trường độ và nhất là cao độ chưa trở thành một yếu tố trong nggon ngữ âm
nhạc. Nhưng rồi cùng với sự trưởng thành của loài người, âm nhạc củng
trưởng thành và cao độ, trường độ bước dần vào vị trí đúng như nó phải
có – giai điệu đóng vai trò chủ đạo trong ngôn ngữ âm nhạc nói chung và
trong từng tác phẩm âm nhạc nói riêng.
Cũng
không ngạc nhiên vì sự thay đổi này ! Với con người nguyên thủy, có thể
nói là con người bản năng, con người mà trong nó có phần con vẫn chế
ngự phần người, phần quan hệ xã hội, lí trí còn mỏng manh so với phần
thú vật, thì tiếng động, âm và tiết tấu vẫn là một thứ món ăn hợp gu
nhất ! Song với con người văn minh, con người – xã hội, con người đã
được phát triển về mặt nhận thức thì sự bộc lộ nội tâm đã trở thành một
nhu cầu và giai điệu, như là một sự nâng cao, phát triển và hệ thống từ
ngữ điệu từ giọng điệu của lời nói lại bước lên địa vị chủ đạo. Cũng như
vậy, sau này với chiều cao, chiều sâu và chiều rộng của trí tuệ con
người, ngôn ngữ âm nhạc lại được bổ sung thêm bằng phức điệu và hoà
thanh.
Vả
lại, như trong chương trình trước đã trình bày, ngọn nguồn của âm nhạc
là là giọng điệu của lời nói, âm điệu của ngôn ngữ - tức là ngữ điệu –
nói đến nhạc không phải ngẫu nhiên mà có các từ ghép nhạc điệu, vì nhạc
gắn liền với điệu như bóng với hình. ( Cũng như người ta thường dùng từ
ghép dáng điệu, bộ điệu...). Còn âm, âm mới chỉ là một hiện tượng khách
quan, tồn tại ngoài quan hệ với con người, ngoài thính giác, nói chung
là ngoài cảm giác quan và trí tuệ của con người. Âm thông qua tai nghe
và được thẩm dịnh về cao thấp, dài ngắn, mạnh yếu, khoan nhặt, màu sắc…
Mới trở thành thanh. Âm và thanh giống nhanhở chỗ hình thành trong thời
gian có cường độ, có tốc độ nhưng khác nhau ở chỗ thanh phải có tần số
cố định để có thể so sánh về độ cao được chọn lọc, sắp xếp thành hệ
thống, có quãng biểu hiện khoảng cách giữa các âm, có trục âm sắp sếp
theo một quy luật nhất định. Có thể nói, thnh là âm đã bước đầu được xác
định về cao độ, độ vang và kể cả về máu sắc nữa. Như vậy, thanh chỉ
xuất hiện trong mối quan hệ với con người, mang bản chất người. Từ âm
đến thanh, đó là một quá trình con người đồng hoá thực tại, nhằm nắm bắt
và nhận thức thực tại. Vậy thì ngôn ngữ âm nhạc bao gồm trước hết là âm
thanh – trong từ ngữ này cần phải hiểu thanh mới thực sự là chất liệu
chủ yếu để nhạc sĩ xây dựng nên tác phẩm âm nhạc. Khi nói rằng thanh là
chất liệu, là phương tiện chủ yếu để xây dựng nên hình tượng âm nhạc thì
có nghĩa là âm không phải đã bị gạt bỏ hoàn toàn khỏi hệ thống những
phương tiện diễn tả của loại hình nghệ thuật âm nhạc. Khi nói rằng thanh
là chất liệu, là phương tiện chủ yếu để xây dựng nên hình tượng âm nhạc
thì có nghĩa là âm không phải đã bị gạt bỏ hoàn toàn khỏi hệ thống
những phương tiện diễn tả của loại hình nghệ thuật âm nhạc. Âm vẫn có
vai trò nhất định của nó trong thế giới nghệ thuật âm thanh. Một số nhạc
cụ ( nhất là bộ gõ ) vẫn nằm trong các dàn nhạc vì sự cần thiết phải có
những âm của nó, có khi nhạc cụ đó không tạo ra những âm có độ cao, độ
vang (để thành thanh) nhưng vẫn là một nhạc cụ không thể thiếu trong dàn
nhạc ; có khi nhạc cụ đó chỉ được sử dụng cề mặt âm sắc của nó nhằm gợi
lên một không khí nhất định… Tuy nhiên, điều quan trọng là liều lượng,
mức độ của việc sử dụng âm ( tự nhiên ) trong việc xây dựng hình tượng
âm nhạc : âm không bao giờ trở thành phương tiện chủ yếu và duy nhất của
loại hình nghệ thuật âm nhạc.
Vai
trò của âm trong âm nhạc có thể ví với vai trò của lời ca, ngôn từ
trong âm nhạc vậy. Trong loại nhạc hát, rõ ràng lời, ngôn ngữ ( nói )
đóng một vai trò không kém phần quan trọng so với âm thanh. Không chỉ
riêng cho nhạc hát, ngay với nhạc đàn, ngôn từ cũng đóng cả vai trò dẫn
dắt, gợi mở, định hướng cho người nghe : tên tác phẩm, tiêu đề cho từng
chương nhạc… Toàn bộ ngôn từ trong âm nhạc bao gồm từ tên tác phẩm, tiêu
đề cho đến lời ca, thơ viết để phổ nhạc ( gọi là thể thơ – ca từ ),
kịch bản cho nhạc cảnh, nhạc kịch… Gộp lại gọi là ca từ. Như vậy, ca từ
là một phương tiện diễn tả âm nhạc nói chung và loại nhạc hát nói riêng.
Điều
đáng lưu ý ca từ, dù có vai trò dẫn dắt, gợi mở, định hướng, thậm chí
có thể có trường hợp như là làm chức năng phiên dịch từ một ngôn ngữ
giàu tính ước lệ (âm nhạc ) thành một ngôn ngữ mang tính phổ biến hơn (
ngôn ngữ nói ), vẫn không thể là phương tiện diễn tả chủ yếu của loại
hình nghệ thuật âm nhạc. Ca từ vẫn chỉ là một bộ phận nằm trong cái tổng
thể của một tác phẩm âm nhạc mặc dù có những quy luật riêng chi phối nó
như một quy luật của ngôn ngữ, quy luật của thơ ca, nhưng ca từ vẫn
phải chịu sự chi phối có tính chất quyết định của quy luật âm nhạc.
Ngôn
ngữ ( nói ), tức là ngôn ngữ giao tiếp, cũng là chất liệu của âm nhạc -
một loại phương tiện vật chất để các nhạc sĩ tạo dựng nên hình tượng âm
nhạc. nhưng khi ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ giao tiếp trở thành một bộ
phận của tác phẩm âm nhạc thì đó không phải là những từ ngữ rời rạc mà
phải được sắp xếp theo những quy luật nhất định ( ngữ pháp, cú pháp, thi
pháp…)
nhằm
biểu hiện một nội dung tư tưởng và tình cảm nhất định. Đến lúc này,
ngôn ngữ nói, ngôn ngữ giao tiếp phải tuân theo một hệ thống diễn tả
nhất định và trở thành ca từ. Đến lúc này ca từ mới nằm trong hệ thống
những phương tiện diễn tả, hệ thống những phương tiện biểu hiện của âm
nhạc và là một thành tố của ngôn ngữ âm nhạc. (Ở các nước trên thế giới,
nhất là với Việt Nam, nhạc hát nói chung, đặc biệt là ca khúc, đóng một
vai trò quan trọng trong đời sống âm nhạc. Vì vậy, ca từ, lời ca - với
tính cách là một trong những thành tố của âm nhạc - sẽ được khảo sát và
lí giải trong một chương trình dành riêng ).
Nhưng
chỉ với thanh, hay như cách nói phổ biến hiện nay là âm thanh, và còn
có thể kể thêm với tiếng động ( những âm tự nhiên hay những âm do con
người mô phỏng lại những âm tự nhiên ), với ngôn ngữ vẫn chưa thể trở
thành tác phẩm âm nhạc ( Với gạch, ngói, vôi, vữa... Phải cộng thêm kĩ
thuật xây lắp nới thành nhà cửa ). Âm thanh phải được tổ chức, sắp xếp
theo một trình tự và một trật tự nhất định mới trở thành tác phẩm âm
nhạc. Không phải ngẫu nhiên mà người ta thường gọi âm nhạc là nghệ thuật
kiến trúc âm thanh. Và âm nhạc, cũng như các loại hình nghệ thuật khác,
có một hệ thống gồm những phương tiện diễn tả của nó.
Trong
những chất liệu để xây dựng nên hình tượng âm nhạc, âm thanh vẫn là
chất liệu chủ yếu và quan trọng nhất. Âm thanh – nói rõ hơn là thanh –
đó là những âm đặc biệt được tạo ra bởi con người hoặc bằng những công
cụ do con người sáng tạo nên ( nhạc cụ ) được sắp xếp thành hệ thống
theo những nguyên tắc, quy luật nhất định. Âm thanh - chất liệu của âm
nhạc – không phải là một sự bắt chước mà là một sản phẩm sáng tạo của
trí tuệ con người, nếu có mô phỏng chăng nữa thì đó là một sự sáng tạo
trên cơ sở mô phỏng tự nhiên. Từ âm đến thanh, từ thanh đến nhạc, đó là
một quá trình tóm tắt của lịch sử âm nhạc, nói hẹp lại là lịch sử của
ngôn ngữ âm nhạc.
Những
thành tố chủ yếu trong ngôn ngữ âm nhạc. Phần trên đã khái quát về
chặng đường từ âm đến thanh và từ thanh đến nhạc lại xuất hiện những
phương thức kết cấu, phối hợp có tính quy luật của quá trình này.
Trước
hết đó là giai điệu, một sự kết hợp về độ cao và độ dài của các âm
thanh, mỗi chuỗi âm thanh nối tiếp nhau thành một bè. Nói đến giai điệu
cũng là nói đến sự tổ chức về mặt độ cao của các âm thanh kết hợp với sự
tổ chức về mặt độ dài của chúng. Nói đến sự tổ chức cũng có nghĩa là
nói đến sự sắp xếp, nói đến trình tự, trật tự, nói đến quy luật nhất
định trong cấu trúc đó. Ví dụ, xét riêng về mặt độ cao, không thể xem
giai điệu như là một chuỗi những âm thanh cao thấp khác nhau nối tiếp
một cách tuỳ tiện, hỗn loạn, ngược lại chuỗi âm thanh cao thấp khác nhau
phải theo một hướng chuyển động nào đó, phải khuôn vào một tầm cữ từ âm
thanh cao nhất đến âm thanh thấp nhất… Hoặc xét riêng về mặt độ dài của
các âm thanh thì cũng có nghĩa là nói đến thời gian, những âm thanh dài
ngắn khác nhau không bao giờ có ý nghĩa độc mà nó phải nằm trong một
mối tương quan nhất định.
Đã
có ý kiến cho rằng nên gọi giai điệu là âm điệu trong chừng mực tách
rời giữa độ cao và độ dài của các âm thanh, và chuyển độ dài của các âm
thanh vào tiết tấu. Song sẽ thật khó lòng mà tách rời độ cao khỏi độ dài
của một âm thanh vì một âm thanh - với tính cách là một thanh – chí ít
phải tồn tại trong độ cao và độ dài của nó nhất là trong giai điệu là
một chuỗi những âm thanh nối tiếp nhau thì càng không thể tách rời độ
cao khỏi độ dài của từng âm thanh được. Hơn nữa, nếu coi giai điệu chỉ
còn là độ cao của các âm thanh nối tiếp nhau thì đó mới chỉ là chất liệu
chứ chưa phải là phương tiện diễn tả của âm nhạc. Nói đến phương tiên
diễn tả là phải nói đến cách sắp xếp cấu trúc những chất liệu. Giai điệu
phải là nhưũng âm thanh nối tiếp nhau theo một quy luật cấu trúc về độ
cao và độ dài của nó, và phải có tác dụng gợi lên trí óc người nghe một
bức tranh với những đường nét chính về cuộc sống. Có thể gọi giai điệu
là một bản phác thảo của một hình tượng âm nhạc nhất định. Nói chác
khác, giai điệu là một phương tiện diễn tả của âm nhạc.
Nhưng
chỉ với giai điệu- một trong những phương tiện diễn tả của âm nhạc -
vẫn chưa tạo thành một tác phẩm âm nhạc. Có thể đưa ra một so sánh đơn
giản và dễ hiểu hơn ( nhưng cũng rất khấp khểnh ). Gạch và vôi vữa là
chất liệu để xây nhà, cách xây sẽ là một lớp gạch rồi đến một lớp vôi
vữa ( giai điệu ), nhưng vôi vữa dày bao nhiêu, mạch vôi vữa từ lớp gạch
dưới đến lớp gạch trên như thế nào thì lại là một vấn đề khác. Trong âm
nhạc, tạo được giai điệu chua đủ mà phải có cách tổ chức, sắp xếp của
giai điệu về mặt thời gian – đó chính là tiết tấu, một trong những
phương tiện diễn tả của âm nhạc. So với giai điệu, tiết tấu đóng vai trò
không kém phần quan trọng trong việc tạo dựng một tác phẩm âm nhạc.
Theo
Vanxăng Đanhđi, tiết tấu là trật tự và tỉ lệ về thời gian hay theo
Vakhramêep, tiết tấu là tương quan trường độ của các âm thanh nối tiếp
nhau. Thoạt trông hình như có sự khác nhau trong hai cách định nghĩa về
tiết tấu, nhưng xét kĩ ta vẫn thấy có những điểm tương đồng căn bản. Thứ
nhất, đã nói đến tiết tấu là nói đến thời gian, tính chất thời gian của
âm nhạc. Thứ hai, đã nói đến tiết tấu là nói đến cách tổ chức, sắp xếp
về mặt thời gian của các âm thanh. Thứ ba, đã nói đến cách tổ chức, về
mặt thời gian của các âm thanh cũng tức là phải nói đến những quy luật
nhất định trong cách tổ chức, sắp xếp đó – nói theo Vanxăng Đanhđi thì
đó là trật tự và tỉ lệ, nói theo Vakhrammêep thì đó là mối tưong quan về
độ dài của các âm thanh. Như vậy là âm thanh vốn có độ cao độ dài của
nó. Với giai điệu, chủ yếu vẫn là cách tổ chức và sắp xếp về độ cao (
tất nhiên khôn ghtể tách rời khỏi độ dài ) của các âm thanh. Với tiết
tấu, độ dài của các âm thanh đòi hỏi phải tuân theo những quy luật nhất
định có nghĩa là phải có những trật tự và tỉ lệ của nó, chính trật tự và
tỉ lệ đó quyết định sự chuyển động, tính tổ chức và tính chất của giai
điệu âm nhạc. Một ý nghĩa khác mà Vanxăng Đanhđi và Vakhramêep chưa đề
cập đến, đó là vai trò của con người đối với tiết tấu. Vói tư cách là
chủ thể thẩm mĩ, những trật tự và chủ thể về thời gian, những tương quan
về trường độ (độ dài về thời gian) của các âm thanh đều do con người
quy định. Ý niệm về tiêt tấu xuất hiện do cuộc sống xã hội và nhất là do
tự nhiên mang lại. Tiếng sóng vỗ, tiếng suối chảy, cành lá rung rinh,
tiếng vó ngựa... Đó là cơ sở của ý niệm về tiết tấu. Song con người -
với tính cách là chủ thể thẩm mĩ – không chỉ phản ánh thụ động về thế
giới khách quan. Ý niệm về tiêt tấu chỉ có thể xuất hiện trên cơ sở ý
niệm về thời gian trong nhận thức về con người. Cho nên có thể nói rằng,
ý niệm về tiết tấu là một dạng ý niệm về thời gian, một dạng nhận thức
về quy luật và chu kì về thời gian. Đã nói đến ý niêm về thời gian thì
ngoài tính khách quan của thời gian, không thể không nói đến tính chủ
quan tron gnhận thức của con người. Như vậy, tiết tấu cần được hiểu là
trật tự và tỉ lệ về thời gian khách quan đã được con người nhận thức và
tạo nên những quy ước tương ứng nhất định trong âm nhạc.

Cần tránh một quan niệm siêu hình về tiết tấu, coi tiết tấu âm nhạc như
những quy định cứng nhắc, muôn thủa. Tiết tấu âm nhạc có liên quan chặt
chẽ với nhịp độ của cuộc sống. Nhịp độ cuộc sống là cơ sở, tiền đề cho
con người có ý niệm về tiết tấu. Khi con người chỉ mới biết nhận biết
được cái chu kì (có tính quy luật) của thời gian với ngày, đêm, tháng,
mùa, năm, giáp, kỉ... Thì ý niệm về tiết tấu không thể giống lúc con
người đã nhận thức được giờ, phút, giây, một phần trăm (hay hơn nữa) của
giây... Do đó, cái nhìn nhu cầu đổi mới của tiết tấu âm nhạc của từng
thời đại cũng là điều dễ hiểu.

Chỉ với giai điệu và tiết tấu là đã có thể đủ để sáng tạo nên một tác
phẩm âm nhạc theo cái nghĩa hoàn chỉnh của loại hình thức nghệ thuật
này. Rõ ràng là trong lịch sử loài người đã có những giai đoạn khá dài
chỉ mới biết đến loại âm nhạc một bè, một giọng (gồm giai điệu và tiết
tấu) ; đã có một thể loại âm nhạc như ca khúc, ngoài phần lời ca, nghĩa
là xét về phương diện âm thanh thuần tuý thì trong loại thể này chỉ mới
sử dụng hai phương tiện của âm nhạc : giai điệu và tiết tấu. Vad ai dám
bảo đảm rằng các làn điệu dân ca không hay, ai dám bảo có những ca khúc
mới hiện nay (trong nước và trên thế giới) là không có giá trị ?

Cũng từ những ngày tháng khá xa xưa trong lịch sử, con người đã biết sử
dụng một hình thức âm nhạc bao gồm nhiều giọng, nhiều bè, nói rõ hơn là
nhiều giai điệu khác nhau phát ra và vang lên trong cùng một thời gian
nhất định. Từ đó, loài người dần dần nâng cao, hệ thống để thành một
phương tiện diễn tả mới trong ngôn ngữ âm nhạc : phức điệu. Phức
điệu nói đơn giản (và sẽ có mặt đơn sơ, sơ sài) là một cách cấu trúc
(phương tiện diễn tả) một tác phẩm âm nhạc gồm nhiều điệu, nhiều giọng,
nhiều bè, tức là nhiều giai điệu âm nhạc cùng đi song hành với nhau
trong đó mỗi giai điệu có một cách tiến hành riêng về độ cao, độ dài và
tiết tấu nhằm biểu đạt một nội dung riêng.

Không phải cứ tác phẩm âm nhạc nào có nhiều bè, nhiều giọng thì ở đó đã
dùng đến những phương tiện diễn tả phức điệu. Có những tác phẩm âm nhạc
(nhiều chứ không phải ít) trong đó một giai điệu đóng vai trò chính và
chủ đạo, còn các bè, các giọng khác nhau chỉ có nhiệm vụ làm đẹp, làm
giàu cho giai điệu và nhằm làm tôn giai điệu (chính) lên bằng một cách
nào đó (như hoà thanh mà ta sẽ đề cập đến sau đây). Theo luật ngữ âm
nhạc, đó là âm nhạc chủ điệu ( một điệu, một giai điệu làm chủ, là
chính). Trong âm nhạc chủ điệu, những giọng, những bè xuất hiện trong sự
hoà hợp với giai điệu để phục vụ cho giai điệu chính.

Với phức điệu, đây là sự hoà hợp của nhiều giai điệu hoặc nhiều bè khac
nhau, song mỗi giai điệu, mỗi bè lại có một vị trí và ý nghĩa độc lập
riêng của nó, có tiếng nói riêng của nó. Nói cách khác, đây không phải
chỉ là hoà hợp của những âm thanh riêng rẽ mà là sự hoà hợp có tính chất
rộng lớn của những chỉnh thể khác nhau để tạo thành một thể thống nhất.
Như vậy, mỗi giai điệu, mỗi môt bè đều có tính độc lập – chính xác hơn
thì phải nói là tính độc lập tương đối của nó – tính độc lập tương đối
đó lại phải tuân theo những quy luật nhất định để không phá vở tính
thống nhất và hoàn chỉnh của tác phẩm âm nhạc ; ngược lại tính độc lập
tương đối của nó phải làm cho hình tượng âm nhạc phong phú hơn, giàu có
hơn, đa dạng hơn và cũng có nghĩa là trung thực hơn trong việc phản ánh
hiện thực cuộc sống.

Với phương tiện diễn tả phức điệu – như một biểu hiện bằng nhiều tuyến
tiến hành theo chiều ngang trong sự kết hợp với chiều dọc ở một mức độ
nhất định để đảm bảo tính thống nhất của tổng thể tác phẩm – âm nhạc lại
mở thêm một khả năng mới mẻ về mặt biểu hiện những cảm nghĩ của con
người trước cuộc sống. Nhờ phức điệu, âm nhạc có khả năng nói lên cùng
một lúc được nhiều tầng, nhiều ý, nhiều lớp, nhiều xu thế, nhiều chiều
hướng trong nội tâm của con người và người thưởng thức sẽ cùng một lúc
được đón nhân toàn bộ sự đa dạng và phức tạp của nhiều sắc độ trong thế
giới nội tâm của con người.

Hãy đi thêm một bước ! Trước một hiện tượng trong cuộc sống tự nhiên và
xã hội, trong đầu chúng ta xuất hiện bao nhiêu luồng ý nghĩ ? Tốt hay
xấu, thiện hay ác, lành hay dữ, tích cực hay tiêu cực, yêu hay ghét,
khen hay chê... ? Có những hiện tượng mà ta không thể trả lời đơn giản,
một chiều. Sự cảm nhận của mỗi người trước thế giới hiện thực khách quan
không bao giờ là một màu đơn điệu, vì sự cảm nhận cũng có nghĩa là một
sự phản ứng của tâm hồn con người. Sự phản ứng này lệ thuộc vào hai yếu
tố khác thể và chủ thể, trong đó bản thân khách thể (cuộc sống) cũng
chứa đựng không biết bao nhiêu mâu thuẩn, và bản thân chủ thể (con
người) với thế giới nội tâm của nó thì lại cũng là một thứ thiên la địa
võng, lắm ngõ, nhiều ngách. Chính cái chằng chịt, chồng chéo của khách
thể và chủ thể đã trở thành một nhu cầu được biểu hiện trong âm nhạc -
phức điệu đã xuất hiện để đáp ứng đòi hỏi này.

Cũng như con người tự nối dài (và cũng có ý nghĩa nối thêm chiều cao)
của bàn tay mình bằng công cụ lao động, âm nhạc, với quá trình trưởng
thành của con người, đã tự nối thêm một phương tiện diễn tả mới (phức
điệu) để nói lên được những nỗi niềm của mình trước những đối thể ngoài
mình.

Người ta thường nói đến nguồn gốc rất xa xưa của phức điệu và người ta
cũng thường quy về cho Băc đã có nhiều công lao trong công việc định
hình thành nhưngc quy luật nghiêm ngặt và chặt chẽ cho phức điệu. Song
điều quan trọng hơn vẫn là ý nghĩa của sự xuất hiện phức điệu trong âm
nhạc với tính cách là một phương tiện diễn tả âm nhạc, một thành tố của
ngôn ngữ âm nhạc. Phải đạt tới một trình độ nhận thức nhất định về cuộc
sống trong quan hệ mâu thuẫn và thống nhất của nó ; phải có ý thức về
vai trò của từng cá nhân con người trong xã hội mới thấy được vai trò
độc lập (tương đối) của một đơn thể trong một tổng thể ; phải có ý niệm
về mối quan hệ giữa cái bộ phận và cái toàn cục thì phức điệu mới được
chấp nhận với tính cach là một phương tiện diễn tả âm nhạc. Cùng với
phức điệu, âm nhạc có khả năng để tạo nên những bức tranh hoành tráng về
một thời đại, một xã hội, tạo nên những tượng nghệ thuật có tầm khái
quát rộng hơn về thế giới hiện thực khách quan.

Song khả năng của trí tuệ và khát vọng của con người là vô tận. Với
trình độ nhận thức ngày càng cao, với thế giới nội tâm ngày càng phong
phú, sâu sắc, với đôi cách kỳ diệu của khoa học và kỹ thuật... Con người
đã bổ sung vào thế hệ những phương tiện diễn tả loại hình nghệ thuật âm
nhạc, đó là hoà thanh.

Hoà thanh đã trở thành một phương tiện diễn tả không kém phần quan
trọng trong loại hình nghệ thuật âm nhạc, nó là sự tổ chức có tính quy
luật của sự hoà hợp giữa hai âm thanh hay của một chồng âm thanh, là
cách tiến hành và nối tiếp của những chồng âm thanh đó. Tác phẩm âm nhạc
giờ đây không chỉ bao gồm một bè, một giọng đơn điệu mà nó bao gồm
nhiều bè cùng phát ra, cùng vang lên và trong cùng một lúc. Nhưng những
bè đó không vang lên cùng một lúc một cách tuỳ tiện mà phải là sự hoà
hợp của từng âm thanh trên và âm thanh dưới (kể cả những âm thanh xen
giữa), mỗi âm thanh phải nằm trong sự hoà hợp của những âm thanh khác,
có nghĩa là phải có những quy luật của sự pha trộn âm thanh này - đấy
chính là quy luật hoà thanh.

Nói quy luật là có cơ sở triết học của nó vì khi nói đến hoà thanhthì
có nghĩa là sự hoà hợp của những âm thanh khác nhau và có sự khác nhau
nên con người mới nghĩ tới sự hoà hợp. Vấn đề là làm thế nào để những âm
thanh phát ra trong cùng một lúc ấy không giống nhau, khôn gchọi nhau
mà người nghe không thấy chối chướng. Nhưng cũng có lúc phải tạo ra sự
chối chướng để dẫn đến sự hoà thuận. Mặt khác, quy luật hoà thanh cũng
có cơ sở khoa học của nó đó là quy luật công hưởng của âm thanh. Mỗi âm
thanh trong thế giới tự nhiên vang lên đều tạo ra một số âm vang theo nó
tức là chuỗi bồi âm. Ngoài ra, nhiều nhà vật lí còn cho biết là trong
tai người còn có âm thanh phối hợp, những âm thanh bất hợp phát hay âm
thanh ma. Các nhà vật lí dần dần đã lí giải và tính toán được cả độ mạnh
và độ cao của những âm thanh ma kia theo những quy luật toán học rất
chặt chẽ. Từ những âm thanh thiên tạo (tự nhiên), âm nhạc đã tạo thành
âm thanh nhân tạo và đã khai thác, tận dụng, phát triển thành những quy
luật hoà thanh.

Nhưng âm nhạc là một loại hình nghệ thuật do con người sáng lập nên.
Chính vì vậy, không thể nói những quy luật hoà thanh cũng là những quy
luật vật lí hay quy luật toán học. Vì vậy cần phải hiểu sự đa dạng và
phong phú của thế giới nội tâm mà con người đã nhiều lúc vi phạm và vượt
lên trên những quy luật hào âm tự nhiên. Hơn nữa, hoà thanh những quy
luật của nó không phải sinh ra cho chính nó ; hoà thanh không phải là
mục đích tự thân mà là một phương tiện do con người tìm để sáng tạo nên
cái đẹp nhằm phục vụ nhu cầu thẩm mĩ của chính con người. Vậy nên mỗi
thời đại, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng người trong một thời kì lịch sử
nhất định lại tạo thêm những quy luật riêng cho sự phát triển của hoà
thanh. Chúng ta đã từng nghe nói đến hoà thanh của trường phái cổ điển,
trường phái lãng mạn, trường phái ấn tượng và gần đây là trường phái hoà
thanh hiện đại. nói cách khác, hoà thanh cũng là một phạm trù lịch sử,
nghĩa là nó mang dấu ấn của con người, mang bản chất người theo cách nói
của Mác. Nhưng quan niệm về mâu thuẩn và thống nhất, khác biệt và hài
hoà, thuận và nghịch, sáng và tối, nóng lạnh, chói lọi và êm ái... Với
những phương hướng lí giải và cách giải quyết đều hiện lên khá rõ nét
trong những quy luật hoà thanh.

Lịch sử là một quá trình vận động và phát triển không ngừng, hoà thanh
là một phương tiện diễn tả âm nhạc, cũng không không nằm ngoài quy luật
phát triển và vận động không ngừng đó. Vấn đề chỉ còn là nó phát triển
đến đâu, vận động đến đâu để không tách rời khỏi quỹ đạo của thời đại,
để nó vẫn là một phương tiện biểu hiện cái đẹp, để nó không vượt quá
giới hạn của nhu cầu thẩm mĩ và biếtn thành một thứ xiếc âm thanh, một
thứ trò chơi duy mĩ, trống rỗng, tầm thường.
Nói
như vậy không phải là võ đoán. Vì rõ ràng đã có những trường phái sáng
tác âm nhạc đưa hoà thanh lên vị trí độc tôn, hang đầu. Với họ, âm nhạc
chỉ còn là những chồng âm nối tiếp những chồng âm, những chồng âm thuận
và những chồng âm nghịch... Chỉ có chừng ấy cũng đủ gây những ấn tượng
trong lòng người thưởng thức âm nhạc. Người ta quên mất rằng hoà thanh
mới chỉ là một phương tiện diễn tả âm nhạc, hoà thanh có giúp cho âm
nhạc biểu hiện trên chiều sâu của nội tâm, nhưng làm sao có thể hình
dung chiều sâu tách rời khỏi chiều rộng, chiều ngang ? Hơn nữa người ta
cũng quên mất ý nghĩa của sự xuất hiện hoà thanh !

Nói đến hoà thanh là nghĩ đến độ dày của các âm thanh, chiều dọc của
các âm thanh. Trong một chừng mực hết sức hạn chế mà nói, phức điệu là
một dạng tư duy theo chiều ngang, theo tuyến thời gian và điều đó rất
phù hợp với đặc điểm của âm nhạc : nghệ thuật thời gian. Hoà thanh lại
là một dạng tư duy theo chiều dọc, cũng có nghĩa là chiều sâu và chiều
cao. Với hoà thanh, con người đã cố gắng tạo ra một phương tiện để đào
sâu thêm, vươn cao hơn trong việc nhận thức thế giới khách quan ngoài
mình và cả thế giới bên trong của chính mình. Có thể nói, với âm nhạc
hoà thanh vốn là nghệ thuật thời gian lại thêm một khả năng để phản ánh
một cách rõ ràng hơn và được khẳng định bằng một phương tiện diễn tả của
âm nhạc : hoà thanh

thể kể thêm một phương tiện diễn tả khác nữa của âm nhạc : phối khí -
một hệ thống phối hợp nhiều nhạc cụ hoặc cùng loại hoặc khác nhau. Tác
phẩm âm nhạc có một đặc điểm khác với một số tác phẩm nghệ thuật như
điêu khắc, hội hoạ, kiến trúc... Ở chỗ đó không đến thẳng với người
thưởng thức mà phải thông qua nghệ sĩ biểu diễn – ngoài giọng người ra
còn có các loại nhạc cụ (và kể cả giọng người cũng là loại nhạc cụ đặc
biệt). Con người thời cổ xưa khi bắt đầu biết hát và trong khi hát đã
biết vỗ tay, dậm chân, gõ que vào một vật nào đấy – có lẽ đó là hình
thức nguyên thuỷ và thô sơ nhất của sự phối khí trong âm nhạc. Nhưng rồi
nhạc cụ ngày càng nhiều, đến một độ nhất định, phải nghĩ tới một hình
thức sắp xếp, phối hợp để âm thanh của các nhạc cụ phát ra và vang lên
không thể thành một mớ âm thanh rối bỏng bong và hỗn loạn. Phải làm thế
nào để các âm thanh đó không lấn át nhau về âm lượng, về cường độ ; phải
sắp xếp thế nào để hàng loạt âm thanh (của hàng loạt nhạc cụ) khác nhau
rất xa về độ cao, đảm bảo được cái độ dày và không bị trống, không bị
cách quãng quá xa nhau ; phải tổ chức cho chúng biết nhường nhịn lẫn
nhau để tôn tạo nhau lên trong những nét nhạc cần thiết. Phải nắm để huy
động cho được cái sở trường, kĩ xảo và âm sắc riêng biệt của từng nhạc
cụ, đồng thời lại biết hạn chế mặt sở đoản của chúng và còn phải biết
phiên chế các nhạc cụ có thể không quá cồng kềnh mà vẫn đảm bảo được
hiệu quả cao nhất cho tác phẩm âm nhạc...
Trên
lĩnh vực này, loài người đã đạt tới những quy tắc rất chặt chẽ về phối
âm và phối khí. Tuy nhiên không nên đối lập giữa phối khí với phức điệu
và hoà thanh. Ngược lại, phối khí đã tận dụng những quy luật của phức
điệu và hoà thanh để nâng lên một mức cao hơn dựa vào sự khai thác nhằm
kết hợp những âm thanh đã có âm sắc. Như vậy, phối khí vừa đòi hỏi sự
chặt chẽ, chuẩn xác của khoa học lại vừa đòi hỏi đạt mức biểu hiện của
nghệ thuật. Đó cũng là khoa học trong nghệ thuật hay cũng là nghệ thuật
trong sự kết hợp hữa cơ với khoa học.
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 985
Points : 2798
Danh tiếng : 0
Join date : 13/03/2011

https://chobe.forum-viet.com

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết